Monday, January 1, 2001

Đông y điều trị nghẹt mũi

Thời tiết chuyển mùa, trẻ em,người có cơ địa dị ứng với thời tiết thường dễ ngạt mũi. Chưa hẳn là ốm để dùng thuốc, nhưng sự ngạt mũi, khó thở gây nên không ít khó chịu.

Nguyên nhân nghẹt mũi có rất nhiều. Ngoại trừ các nguyên nhân thường gặp như bất thường bẩm sinh, khối u, pôlyp mũi, dị vật, chấn thương... có thể điều trị bằng phẫu thuật. Đông y chia chứng ngạt mũi thành các thể bệnh khác nhau và tùy thể mà dùng bài thuốc thích hợp để điều trị.

Lá tế tân.

Thể phong nhiệt

Trường hợp tắc mũi, chảy nước vàng đục, phát sốt, khát nước, sợ gió, mạch phù sắc, do phong nhiệt uất phế phải thanh khí tiết nhiệt, tuyên phế, thông khiếu.

Bài thuốc: Tang diệp 10g, hoàng cầm 10g, thương nhĩ tử 10g, kim ngân hoa 10g, lô căn 12g, cúc hoa 10g, sinh chi tử 10g, bạch chỉ 10g, mạn kinh tử 12g. Sắc uống ngày 1 thang.

- Nếu trong mũi sưng trương kèm theo đau, phù nề, chảy nước mũi nhiều phải tán phong, thông lạc hoạt huyết, thanh nhiệt.

Bài thuốc: Ty qua đằng (dây muớp gần gốc) 15g, hoàng cầm 12g, kim ngân hoa 10g, ké đầu ngựa 10g, hoàng cầm 12g, cát căn 15g, bồ công anh 20g, bạch chỉ 10g. Sắc uống ngày 1 thang.

- Bệnh nhân bị nghẹt mũi, chảy nước vàng mà bên trong có mủ đục khó thở phải làm sạch nhiệt độc ở dương minh, bài nùng, tiêu sưng, lợi khiếu.

Bài thuốc: Thăng ma, xích thược đều 12g, diếp cá 12g, cát cánh 10g, ké đầu ngựa 10g, hoàng cầm 12g, cát căn 15g, bồ công anh 20g, bạch chỉ 10g, sinh cam thảo 6g, tân di hoa 10g, đương quy vĩ 10g. Sắc uống ngày 1 thang.

Thế thấp nhiệt:

Trường hợp nghẹt mũi chảy ra nước đục dính và hôi, đầu căng đau, miệng đắng, ngực bụng bì bạch khó chịu, mất ngủ, kém ăn, rêu lưỡi vàng nhớt là do thấp nhiệt nung nấu trong can đờm, tỳ vị. Trường hợp bị nặng phải thanh nhiệt, giải độc, táo thấp lý tỳ, nguyên tý thông lạc.

Bài thuốc: Ké đầu 12g, bạch chỉ 10g, tân di hoa 10g, xích phục linh 10g, thạch xương bồ 10g, cam thảo 6g, hoàng cầm 10g, ý dĩ 15g, hoắc hương 10g, hoàng liên 8g, thông thảo 10g, ty qua đằng 12g. Sắc uống ngày 1 thang.

Thể táo nhiệt:

Bệnh nhân bị nghẹt mũi lâu ngày không khỏi, có tính chất dai dẳng lúc này, lúc nọ, khứu giác giảm dần mũi khô, ngứa, họng khô, mạch tế... thuốc thể táo nhiệt thương âm phải dưỡng âm, thanh táo, nhuận phế.

Bài thuốc: Lá dâu 12g, hạnh nhân 10g, sa sâm 10g, ngọc trúc 10g, lô căn 30g, sinh thạch cao 30g, lá nốt tây 10g, thiên môn đông 10g, mạch môn đông 10g, thạch lộc 10g. Sắc uống ngày 1 thang.

Thể hư nhiệt:

- Người bệnh kèm theo tâm phiền, nóng chảy dễ cáu giận, đầu choáng váng do can, thận âm hư, hư nhiệt xông lên phải nhu can, thanh nhiệt, tự thận sinh tân.

Bài thuốc: Đương quy 10g, câu kỷ tử 10g, can địa hoàng 12g, thiên môn đông 10g, cúc hoa 9g, tang diệp 9g. Sắc uống ngày 1 thang.

- Trường hợp nghẹt mũi do huyết ứ, bệnh thường tái phát nhiều lần, gốc mũi phù nề, khứu giác giảm thậm chí không ngửi được, dịch đặc bít lấp, chất lưỡi tía, phải hoạt huyết, thông trệ, tán kết, thông khiếu. Dùng xích thược 12g, đào nhân 10g, hành già 12g, hồng táo 12g, thiên trúc hoàng 10g, xuyên khung 12g, hồng hoa 10g, sinh khương 6g, hạt ích mẫu 10g, quất bì 10g. Sắc uống.

Thể phong hàn:

- Bệnh do hàn tà xâm phạm làm nghẽn tắc phế khí, người bệnh thường phát sốt sợ lạnh, nói nặng tiếng, hắt hơi, mũi chảy nước trong, khó chịu phải dùng thuốc cay, ấm để thông khiếu tán hàn giải biểu.

Bài thuốc: Cát căn 9g, ma hoàng 2g, sinh cam thảo 6g, quế chi 6g, xích thược 9g, sinh ý dĩ 15g, cát cánh 9g, đại táo 12g, sinh khương 3g. Nếu nghẹt mũi nhiều có thể bỏ ma hoàng, quế chi, gia hoắc hương 6g, bạc hà 3g, tân di 9g, thương nhĩ tử 12g. Sắc uống ngày 1 thang.

- Nếu biểu hàn nhẹ, rêu lưỡi trắng nhớt nên tán biểu thông khiếu tuyên phế, lợi thấp.

Bài thuốc: Tân dĩ hoa 6g, tiền hồ 9g, ý dĩ 12g, sinh cam thảo 3g, phòng phong 9g, thiên hoa phấn 9g, cát cánh 6g. Sắc uống ngày 1 thang.

- Với bệnh tái phát nhiều lần lỗ mũi sưng, ngứa hắt hơi chảy nước trong hay bị cảm mạo là phế khí hư yếu, phong vít tắc kèm theo thấp tà uất bế phải ích khí, liễm phế, tân tán phong hàn, tiêu sưng giảm đau, thông lợi thấp tà.

Bài thuốc: Hoàng kỳ 12g, phòng phong 12g, tân di hoa 9g, cúc hoa 12g, ngũ vị tử 6g, bạch truật 12g, thương nhĩ tử 12g, bạch chỉ 12g, mộc thông 9g, tang phiêu tiêu 8g. Sắc uống ngày 1 thang.

Nếu nghẹt mũi nặng, vách mũi phù nề, niêm mạc sung huyết là thiên về nhiệt tả thịnh, gia bồ công anh 12g.

Nếu niêm mạc sưng trướng, sắc nhạt là hàn tà ngưng tụ thêm xuyên khung 12g, quế chi 6g.

Nước mũi chảy nhiều là thấp tà thịnh thêm hoắc hương 9g, mộc thông 12g, nếu nước mũi nhiều vàng dính là thấp nhiệt tinh nên cho đông qua tử 12g, xa tiền thảo 12g.

Nếu hắt hơi từng cơn chảy nước trong nên gia thế tân 6g, sinh ý dĩ 12g.

Lương y Hoài Vũ

Sunday, December 31, 2000

Chữa bệnh bằng mực Tàu

Mực tàu là một loại mực màu đen được sử dụng rộng rãi ở nhiều nước phương Đông và một vài nước khác như Ai Cập, Anh... trong quá khứ để viết, in và vẽ. Nền tảng của mực này là chất màu cacbon đen pha trong chất keo lỏng hay các môi trường gắn kết khác. Theo cổ thư Trung Quốc, mực tàu được làm từ muội than của nhựa hoặc gỗ cây thông bị đốt cháy rồi hoà với chất keo và hương liệu. Tuy nhiên, muội than của các dạng gỗ khác nhau cũng được sử dụng và sẽ tạo ra các loại mực có tông màu khác nhau.

Trong các dược thư cổ như Bản thảo cương mục, Bản thảo thập di, mực tàu được gọi bằng nhiều tên khác nhau như ô kim, trần hương, huyền hương...và được dùng làm thuốc với vị cay, tính bình, không độc, vào được các đường kinh tâm, can và thận, có công dụng chỉ huyết (cầm máu) và tiêu thũng (làm hết phù nề), được dùng để chữa các chứng bệnh như thổ huyết (nôn ra máu), nục huyết (chảy máu cam), băng huyết, huyết lỵ (kiết lỵ phân có lẫn máu), ung thũng phát bối (nhọt độc ở vùng gáy, lưng)... Theo sách Cương mục, mực tàu có tác dụng lợi tiểu tiện, điều hoà kinh nguyệt; sách Khai ngọc bản thảo cho rằng mực tàu có khả năng chỉ huyết, sinh cơ phu ; theo sách Bản thảo tái tân, loại mực này có công năng bình can thanh phế, trừ phong nhiệt, chỉ khái thấu, sinh tân giải khát. Về cách dùng: nên chọn loại mực để càng lâu thì càng tốt, nếu uống trong thì lấy 1 đến 3 tiền mài uống hoặc tán bột trộn với các vị thuốc khác để làm thuốc hoàn tán, nếu dùng ngoài thì mài với nước để bôi xoa.

Muội than gỗ thông, nguyên liệu chế biến mực tàu.

Ví như, để chữa nôn ra máu nhiều dùng bột mực tàu 2 tiền hoà với nước a giao uống ; để chữa chứng chảy máu cam nặng lấy nước mực tầu đặc nhỏ vào lỗ mũi ; để trị băng huyết dùng bột mực tầu 1 thìa uống; để chữa chứng xích bạch lỵ (kiết lỵ đi ngoài phân có máu hoặc nhầy mũi) dùng can khương và mực tàu, mỗi thứ 2 lạng hoà với dấm làm thành viên hoàn to bằng hạt ngô đồng, mỗi ngày uống vài lần, mỗi lần 30 viên với nước cơm; để trị nhọt độc ở lưng dùng mực tàu mài với dấm xoa xung quanh tổn thương, ở giữa lấy mật lợn bôi... Như vậy, có thể thấy, trong y dược học cổ truyền mực tàu được dùng để chữa khá nhiều mặt bệnh khác nhau. Tuy nhiên, với những tài liệu, sách vở có trong tay và tham khảo kinh nghiệm của nhiều lương y, chúng tôi chưa thấy việc dùng mực tàu để chữa bệnh giời leo bao giờ. Có thể đây là kinh nghiệm dân gian của một vài địa phương hoặc lương y nào đó mà chúng tôi chưa biết được. Chúng tôi sẽ cố gắng tiếp tục tìm hiểu và phúc đáp độc giả trong thời gian sớm nhất.

ThS.Hoàng Khánh Toàn

Bài thuốc hay trị viêm mủ cấp tuyến vú

Viêm mủ cấp tuyến vú, Đông y còn gọi là nhũ ung, tắc tia sữa... Bệnh phát sinh nhiều vào thời kỳ cho con bú, và thường gặp ở những bà mẹ sinh con đầu lòng vào thời kỳ sau sinh 3 - 4 tuần.

Nguyên nhân bệnh sinh

Nguyên nhân bệnh sinh có thể do sữa ứ đọng bởi trẻ bú không hết hoặc do mẹ thiếu kinh nghiệm khiến cho lạc mạch ở vú bị bế tắc, sinh nhiệt mà thành nhũ ung. Cũng có thể là can khí uất trệ khiến tinh thần không thư thai lam cho can khí uât kêt ảnh hưởng đến chức năng vận hóa của tỳ, sữa ứ đọng hóa thành ung. Song còn do vị nhiệt ngưng trệ; theo học thuyết kinh lac thì kinh dương minh vị chu bâu vu, sữa là do khí huyết sinh hóa thành. Ăn uống thất thường gây tổn thương tỳ vị, vị bị nhiệt ủng trệ, nhiệt tích tại nhũ lạc, nhũ lạc mất tuyên thông sinh vú sưng đau mà thành nhũ ung hay nhiễm độc tà do sau khi sinh, cơ thể suy nhươc , dê nhiêm đôc ta xâm nhâp nhũ lạc mà sinh bệnh. Các nguyên nhân như vừa nêu có thể ảnh hưởng lẫn nhau mà phát bệnh.

Ảnh minh họa

Biện chứng luận trị cụ thể

Bệnh mới phát (khí trệ huyết ngưng): biểu hiện các dấu hiệu như: vú sưng đầy đau, da đỏ nhẹ hoặc không đỏ, có hoặc không có hòn cục, sữa ra không thông, kèm theo sốt sợlạnh, đau đầu, cơ thể đau, ngực tức, rêu lưỡi trắng mỏng hoặc hơi vàng, mạch huyền sác hoặc phù sác. Phép trị là sơ can, thanh nhiệt,thông nhũ, tán kết. Dùng phương “Qua lâu ngưu bàng thang gia giảm” (Trung Y Ngoại khoa học). Gồm: qua lâu 12g, ngưu bàng tử 12g, sài hồ 12g, kim ngân hoa 12g, thanh bì 12g, hoàng cầm 10g, sơn chi tử 10g, trần bì 10g, liên kiều 8g, thiên hoa phấn 16g, tạo giác thích 8g, cam thảo 6g. Thêm 2.000ml nước, sắc lọc bỏ bã lấy 200ml. Uống ngày một thang, chia đều 3 lần. Tùy triệu chứng của từng người, thầy thuốc có thể gia giảm một số vị.

Giải biểu, tán tà. Dùng phương “Thác lý tiêu độc tán (Y tông kim giám) gồm: bạch chỉ 8g, bạch thược 10g, bạch truật 10g, cam thảo 4g, cát cánh 8g, hoàng kỳ 8g, kim ngân hoa 12g. Ngaỳ săc 1 thang, chia 3 lần uống

Gia giảm: nếu sắc da không đỏ, sốt nhẹ, bỏ hoàng cầm, sơn chi. Không khát, bỏ thiên hoa phấn, thêm bồ công anh. Sữa không thông, thêm xuyên sơn giáp, vương bất lưu hành, mộc thông. Khí uất, thêm quất diệp, xuyên luyện tử. Sưng đau nhiều, thêm nhũ hương, một dược, xích thược. Nhiệt thịnh, thêm sinh thạch cao, tri mẫu. Trường hợp sưng đau do sữa tắc, dùng cả lòng bàn tay vừa xoa vừa day, nắn vuốt theo hướng xuôi xuống đầu vú, xem đầu vú có bị vảy sữa thì bóc đi, mục đích là để thông sữa. Có thể dùng giác và hút sữa từ đầu vú.

Giai đoạn làm mủ (nhiệt độc thịnh): biểu hiện bầu vú sưng to, da đỏ, nóng, đau tăng, sốt tăng cao, miệng khát muốn uống nước, lưỡi đỏ, rêu lưỡi vàng, mạch huyền sác. Phép trị là thanh nhiệt, giải độc, thác lý, thấu nùng. Dùng phương “Thấu nùng tán gia vị” gồm: hoàng kỳ 10g, thăng ma 10g, đinh lăng 10g, hoàng cầm 12g, sơn chi tử 12g, cát cánh 12g, đương quy 12g, bạch thược 12g, hoàng kỳ 12g, bạch chỉ 12g, bạc hà 8g, mộc hương 8g, xuyên sơn giáp 6g, tạo giác thích 8g, cam thảo 6g. Cho vào 2.000ml nước, sắc lọc bã còn 200 ml, chia đều làm 3 lần uống ngày 1 thang.

Kết hợp bài nùng, thác độc. Dùng phương “Thần hiệu qua lâu tán” (Ngoại khoa tập nghiệm) gồm: cam thảo 20g, đương quy 20g, một dược 8g, nhũ hương 4g, qua lâu 40g. Thêm hạ khô thảo 8g, thanh bì 4g. Sắc, bỏ bã, thêm 10ml rượu, uống nóng, ngày 1 thang, chia 3 lần. Nhiệt nhiều, gia thạch cao (sinh), tri mẫu, kim ngân hoa, bồ công anh. Khát, thêm thiên hoa phấn, lô căn (tươi).

Giai đoạn vỡ mủ (chính khí hư, độc tà thịnh): biểu hiện do tự vỡ hoặc rạch tháo mủ, hạ sốt, sưng đau giảm, miệng liền dần. Nếu mủ đã vỡ mà sưng đau không giảm, thân nhiệt còn cao là nhiệt độc còn thịnh, đó là dấu hiệu mủ lan sang các nhũ lạc khác hình than h truyên nang nhu ung. Nêu sữa hoặc mủ tiếp tục chảy lâu ngày không hết gọi là nhũ lậu.

Phép trị là điều hòa khí huyết, thanh giải nhiệt độc. Dùng phương “Tứ diệu tán gia vị”. Hoặc dùng phương gồm: nhân sâm, thăng ma, mỗi thứ 10g; thanh bì; bạch truật, bạch chỉ, đương quy, hoan g ky môi thư 12g; xuyên sơn giap , tạo giác thích, cam thảo mỗi thứ 6g. Cho vào 2.000ml nước, sắc lọc bỏ bã còn 200ml, chia 3 lần uống. Sắc uống ngày một thang.

Kết hợp ích khí, hòa doanh, thác độc. Dùng phương “Thác lý tiêu độc tán” (Y tông kim giám) gồm: bạch chỉ 8g, bạch thược 10g, bạch truật 10g, cam thảo 4g, cát cánh 8g, hoàng kỳ 8g, kim ngân hoa 12g. Gia giảm. Cụ thể trường hợp truyền nang nhũ ung, phép trị và bài thuốc như 2 thời kỳ trước gia giảm.

BS. HOÀNG XU N ĐẠI

Bài thuốc trị viêm xoang dị ứng

Viêm xoang dị ứng hay gặp quanh năm, nhất là khi giao mùa, thường xuất hiện sau khi có nhiễm virut (cảm cúm), do dị ứng hoặc nhiễm nấm đường hô hấp, làm màng nhày viêm và sưng lên, vì thế dịch từ các xoang không thoát ra được. Bệnh hay tái phát, người bệnh thường xuyên ngạt mũi chảy nước mũi... Nếu không điều trị tốt có thể gây viêm tai giữa, viêm phế quản, phổi hoặc biến thành viêm xoang mạn tính.

Bạc hà là vị trong món canh trứng, tân di, bạc hà, ty qua đằng rất tốt cho người viêm xoang dị ứng.

Nguyên nhân theo Đông y là do phế khí và vệ khí không khống chế được phong hàn xâm nhập gây ra bệnh. Chảy nước mũi là dấu hiệu đặc trưng, có nhày hoặc có mủ, ngạt mũi thường xuyên; giảm hoặc mất khứu giác. Niêm mạc mũi phù nề, nhợt nhạt, cuốn mũi nề mọng; sàn mũi và các khe có chất xuất tiết ứ đọng. Phương pháp chữa là bổ khí cố biểu, khu phong tán hàn. Dùng một trong các bài:

Bài 1: Ngọc bình phong tán hợp quế chi gia giảm: hoàng kỳ 16g, phòng phong 6g, bạch truật 8g, quế chi 8g, bạch thược 12g, đại táo 3 quả, gừng tươi 3 lát. Sắc uống.

Bài 2: Tiểu thanh long thang gia giảm: ma hoàng 6g, quế chi 6g, bạch thược 12g, can khương 4g, cam thảo 4g, tế tân 4g, bán hạ chế 8g, ngũ vị tử 5g, đảng sâm 15g, hoàng kỳ 12g, khương hoạt 8g, ké đầu ngựa 12g. Sắc uống.

Bài 3: bạch truật 12g, quế chi 8g, cam thảo 4g, hoài sơn 16g, tang bạch bì 10g, bạch chỉ 12g, ké đầu ngựa 16g, xuyên khung 16g, tế tân 3g. Sắc uống.

Người bệnh nên kết hợp ăn uống các món sau để tăng hiệu quả điều trị:

Lợi đàm trà: chi tử 20g, bạc hà 6g, thương nhĩ tử 12g, tân di 12g. Dược liệu cùng tán vụn, đem pha hãm cùng với chè uống ngày 1 ấm. Đợt dùng 7 - 20 ngày. Dùng cho các trường hợp viêm mũi xuất tiết, đờm đặc vàng, niêm mạc mũi sung huyết sưng nề, đau đầu, đau vùng cánh mũi chân má.

Canh trứng, tân di, bạc hà, ty qua đằng: ty qua đằng (dây mướp) 60g, tân di 10g, trứng gà 2 quả, bạc hà tươi 10g. Ty qua đằng cắt đoạn rửa sạch, cùng tân di và trứng cho vào xoong nấu. Khi trứng gần chín, lấy ra bóc bỏ vỏ, nấu tiếp, cho bạc hà vào, nấu canh. Ăn trứng và uống nước. Ngày 1 lần, đợt dùng 5 - 10 ngày. Dùng cho các trường hợp viêm mũi xuất tiết, đờm đặc vàng, niêm mạc mũi sung huyết sưng nề, đau đầu, đau vùng cánh mũi chân má.

Cháo thương nhĩ bạch chỉ: thương nhĩ tử 20g, bạch chỉ 6g, hoàng kỳ 30g, kinh giới 10g, tế tân 4g, gạo tẻ 60g, đường trắng lượng thích hợp. Đem các dược liệu sắc lấy nước bỏ bã, cho vào nấu cháo với gạo tẻ, cháo được cho thêm đường, ngày ăn 1 lần, đợt 7 - 10 ngày. Dùng cho các bệnh nhân viêm xoang mũi họng, đau nhức đầu tắc mũi, ngạt mũi.

Lương y Thảo Nguyên

Điều trị kinh nguyệt không mãn

Thông thường, phụ nữ bước vào tuổi 49-50 thì vào giai đoạn mãn kinh. Tuy nhiên, có người vào lứa tuổi này vẫn còn kinh đúng kỳ đều đặn, như vậy là trạng thái sinh lý bình thường. Nhưng với những người vào độ tuổi này kinh lại thất thường, lúc có lúc không, hết rồi lại có, kéo dài dây dưa đó là dấu hiệu bệnh lý, được gọi là “Kinh nguyệt không mãn” hay còn gọi là “Niên lão kinh thủy phục hành” mà trong y học hiện đại cho đó là hiện tượng “Niêm mạc tử cung quá sản”.

Theo Đông y biện chứng

Đông y cho rằng, chứng bệnh này là tuổi lớn làm cho kinh mạch bị suy yếu, khiến mệt nhọc quá sức dẫn đến tính tình vui giận thất thường, song khí bên ngoài xâm nhập vào làm cảm phải tà khí mà sinh bệnh. Mặt khác, ở tuổi 49-50 trở lên thường thận khí hư yếu, kinh nguyệt kiệt, mạch thái xung giảm, địa đạo không thông, vì vậy làm hết kinh nguyệt. Nếu như cơ thể vốn lại bị khí và âm hư, tà khí phục sẵn bên trong làm cho mạch xung nhâm không vững cũng gây thành bệnh. Do vậy mà bệnh chứng thường thấy dưới dạng khí hư, âm hư, huyết hư, huyết nhiệt và huyết ứ mà thường biểu hiện các dấu hiệu riêng biệt của tùng loại như.

Khí hư: cơ thể suy yếu, lao mệt quá sức làm tổn thương trung khí, đồng thời khí hư bị mạch xung nhâm không vững, huyết không được sơ nhiếp mà gây ra tình trạng kinh nguyệt hết rồi lại có.

m hư: thường gặp ở những người lập gia đình sớm, sinh nở sớm làm cho âm huyết bị suy kiệt, lại sinh hoạt tình dục không điều độ làm ảnh hưởng đến thận tinh, cũng có thể do lớn tuổi hay ưu tư suy nghĩ nhiều làm hao tổn doanh huyết.

Huyết nhiệt: do cơ thể vốn dương thịnh, lại ăn nhiều thức cay, nóng làm táo nhiệt uất kết bên trong hoặc cảm nhiệt tà hay giận dữ khiến can hỏa động, hỏa nhiệt, làm tổn thương mạch xung, nhâm làm huyết bất thường sinh ra kinh khi hết khi có.

Huyết ứ: phụ nữ lớn tuổi vốn bị hư yếu, khí huyết vận hành không thoải mái lại kèm nội thương do tình chí gây nên, làm can khí bị uất kết, khí trệ huyết ngưng, làm ngưng lại ở mạch sung, nhâm, làm huyết đi không đúng mà sinh ra bệnh kinh nguyệt không mãn.

Để tham khảo và tùy hoàn cảnh có thể áp dụng, dưới đây xin nêu từng thể loại bệnh chứng kinh nguyệt không mãn để tiện việc chọn lựa sao cho thích hợp, an toàn, hiệu quả.

Các phương thức điều trị

Trị kinh không mãn do khí hư (biểu hiện kinh nguyệt lâu ngày không dứt, người mệt mỏi, hơi thở ngắn, không có sức, ăn kém, mạch nhược): dùng phương Bổ trung ích khí thang (Tế sinh phương) có tác dụng ích khí, kiện tỳ, cố nhiếp: gồm đảng sâm 16g, hoàng kỳ 20g, chích cam thảo 4g, thăng ma 4-6g, quy đầu 12g, sài hồ 6-10g, bạch truật 12g, trần bì 4-6g. Sắc uống ngày 1 thang, chia 2-3 lần.

Trị chứng do khí uất (biểu hiện kinh nguyệt không dứt, hay thở dài, dễ tức giận, hông sườn đau, mạch huyền): dùng phương Tiêu dao tán tác dụng sơ can, giải uất, cố nhiếp. Gồm sài hồ 12g, bạch truật 12g, bạch thược 12g, quy đầu 12g, trần bì 8g, chích cam thảo 6g, sinh khương 12g, bạch linh 12g, bạc hà 12g (bỏ sắc sau). Sắc uống ngày 1 thang, chia 2-3 lần trong ngày.

Trị chứng hư hàn (biểu hiện kinh nguyệt không dứt, sợ lạnh, tay chân lạnh, tiêu lỏng, mạch trầm trì): dùng phương

Tục đoạn hoàn (Phụ nhân đại toàn lương phương) có công hiệu ôn bào cung, tán hàn, cố nhiếp. Gồm tục đoạn 40g, quy đầu 40g, hoàng kỳ 40g, ô tặc cốt 40g, ngũ vị 40g, cam thảo 40g, long cốt 40g, xích thạch chi 40g, thục địa 40g, địa du 20g, ngải diệp 30g, phụ tử 30g, can khương 30g, xuyên khung 30g. Tất cả tán bột trộn với mật làm hoàn to bằng hạt ngô, mỗi lần uống 30 viên vào lúc đói chiêu với rượu hâm nóng. Ngày 2 lần.

Trị chứng do âm hư (biểu hiện tự nhiên tắt kinh khoảng 2 năm hay hơn, rồi lại thấy kinh ra nhiều, màu đỏ tươi, ngũ tâm phiền nhiệt, gò má đỏ, đêm ngủ không yên, họng khô, miệng khô, âm đạo khô sít hoặc nóng rát, đau; da hoặc bên ngoài âm hộ ngứa, tiêu táo, lưỡi đỏ ít rêu, mạch tế sác): dùng phương

Huyết dưỡng âm thang (Phụ khoa lâm sàng thủ sách) tác dụng tư âm, lương huyết, cố mạch xung, chỉ huyết. Gồm sinh địa 12-15g, đơn bì 12g, bạch thược 12g, huyền sâm 12g, hoàng bá 40g, nữ trinh tử 12g, hạn niên thảo 12g. Sắc uống ngày 1 thang, chia 2-3 lần.

Trị chứng do huyết nhiệt (biểu hiện tắt kinh khoảng 2 năm, sau thấy lại, sắc kinh đỏ sẫm, đới hạ nhiều, màu vàng có mùi hôi, lưỡi đắng, miệng khô, tiểu ít nước đỏ, táo bón, lưỡi đỏ, mạch huyền hoạt): dùng phương m tiễn (Y tông kim giám) phương có công hiệu thanh nhiệt, lương huyết, cố mạch xung, chỉ huyết. Gồm sinh địa 12g, tri mẫu 12g, hoàng bá 12g, qui bản 12g, xa nhân 3-6g, chích cam thảo 12-16g, mẫu lệ 12g, mao căn 30g, địa du 12-16g.

Trị chứng do huyết ứ (biểu hiện tắt kinh khoảng trên dưới 2 năm, sau thấy lại, máu màu đỏ tối, có cục, ra nhiều hoặc ít, đau bụng dưới tức hạ vị, đau khi ấn vào, hoặc trong bụng có khối u, lưỡi tím tối, mạch huyền sáp, có lực): dùng phương Đương quy hoàn (Thánh tế tổng lục) có công hiệu hoạt huyết, hóa ứ, cố mạch xung, chỉ huyết. Gồm quy đầu 12g, bạch thược 12g, ngô thù du 5g, đại hoàng 10g, can khương 12g, phụ tử 6g, tế tân 3g, đan bì 15g, xuyên khung 8g, thủy điệt (con đỉa) 3-6g, hậu phác 10-12g, đào nhân 12-6g, quế chi 4g.

BS. Hoàng Xuân Đại

Đông y trị bệnh về da

Làn da phản ánh sự hoạt động điều hòa cân đối của một cơ thể khỏe mạnh sung sức. Có một làn da đẹp là mơ ước của nhiều người. Bệnh về da, sự cố về da cũng rất phức tạp, rất đa dạng. Làm thế nào khắc phục kịp thời khi da có những biến đổi bất lợi. Bài viết này xin giới thiệu một số phương pháp hữu hiệu cho từng thể lâm sàng để bạn đọc có thể tham khảo và áp dụng khi cần.

Da ngứa nổi tịt: Ngân hoa 15g, liên kiều 12g, cát căn 15g, sài hồ 15g, sinh địa 15g, kinh giới 15g, hoàng cầm 12g, chi tử 12g, đương quy 12g, bạch chỉ 10g, cam thảo 10g, đại táo 10g. Sắc uống ngày 1 thang. Bài này phù hợp cho những người gan nóng huyết nhiệt, dễ sinh ra ban chuẩn, giấc ngủ không yên, phân thường táo.

Kim ngân hoa.

Da mặt mọc nhiều trứng cá:

Nam hoàng bá 16g, thương nhĩ 16g, thổ linh 16g, kim ngân 16g, sài hồ 12g, đinh lăng 20g, tang diệp 16g, thục địa 12g, sa sâm 12g, hoàng kì (sao mật) 12g, thảo quyết minh (sao đen) 16g, cam thảo 12g, cỏ mực 16g. Sắc uống ngày 1 thang. Bài này phù hợp với bệnh nhân tuổi trẻ, sức tăng trưởng đang lên, ít nhiều có rối loạn chuyển hóa, chức năng bài tiết thiếu ổn định.

Da mặt đỏ ửng, ngứa và biểu hiện bội nhiễm: Chi tử 12g, bạch thược 12g, ngân hoa 12g, nam hoàng bá 16g, kinh giới 16g, phòng phong 10g, xương bồ 16g, cỏ mực 16g, hạ liên châu 12g, thương nhĩ (sao) 16g, cúc hoa 12g, huyền sâm 12g, cam thảo 12g. Bài này phù hợp cho bệnh nhân bị phong đơn, viêm da, bội nhiễm, đau nhức kéo dài, thần kinh căng thẳng.

Da bủng, da không săn, không tươi nhuận: Phòng sâm 12g, hoàng kì 12g, đương quy 12g, bán hạ 10g, hậu phác 12g, bạch truật 16g, bạch linh 10g, trần bì 12g, cam thảo 12g, ngũ gia bì 16g, sơn thù 12g, hoài sơn 16g, liên nhục 16g, đại táo 16g, củ đinh lăng 16g, thủ ô chế 12g. Ngày 1 thang, sắc 3 lần uống 3 lần. Bài này phù hợp cho những trường hợp tỳ hư, hay bị đau bụng sôi bụng, ăn uống kém, phân lỏng phân sống, chân tay lạnh, cơ bắp yếu ớt, da xanh da bủng, thiếu hẳn đi chất tươi nhuận.

Lương y Trịnh Văn Sỹ

Tuyệt chiêu chữa viêm lợi, nhiệt miệng cho trẻ

Đông y gọi viêm lợi, miệng hôi ở trẻ em là cam miệng (nha cam khẩu xú). Nguyên nhân do vị cảm nhiễm nhiệt tà gây ra miệng hôi, lợi sưng thũng; hoặc do nhiệt tà trùng thống xâm nhập gây miệng hôi, chân răng và lợi sưng, lợi vùng chân răng đen hoặc có mủ.

Trẻ có triệu chứng chủ yếu là nhiệt miệng, miệng môi lở loét, miệng hôi, kèm theo chảy nước rãi; nước mũi chảy nhiều; chân răng chảy máu sau khi ăn, đánh răng, xỉa răng. Bệnh xảy ra thời kỳ răng sữa làm răng mất lớp men trắng, trở thành màu vàng xám hoặc đen, hoặc bị ăn mòn. Trẻ chậm phát triển, ăn uống kém, đại tiện táo, tiểu tiện sẻn vàng, người mệt mỏi, da khô ráp, mạch tế sác. Phương pháp điều trị là thanh vị khu phong, bài trùng.

Bài thuốc uống: dùng một trong các bài:

Bài 1 - Cam lộ ẩm: Cam thảo 4g, tỳ bà diệp 5g, chỉ xác 5g, thiên môn đông 6g, mạch môn 6g, sinh địa 6g, thục địa 6g, nhân trần 6g, thạch hộc 6g, hoàng cầm 6g. Sắc uống trong ngày.

Bài 2: Ý dĩ 70g, hoài sơn 100g, hạt sen 100g, đậu ván trắng 100g, mạch nha 70g, gạo nếp 200g, sơn tra 70g, sử quân tử 30g, thần khúc 30g, đường trắng vừa đủ làm viên. Các vị sao vàng tán bột mịn; đường trắng hòa ít nước và cô lại thành châu. Làm viên bằng hạt đậu xanh; sấy khô, đóng lọ kín. Trẻ em 1 – 3 tuổi, mỗi lần uống 10 – 20 viên; từ 3 – 7 tuổi, mỗi lần 20 – 40 viên; từ 7 – 12 tuổi, mỗi lần uống 40 – 50 viên. Ngày uống 2 lần, uống với nước ấm. Trị các chứng cam tích, trẻ ăn uống kém, gầy còm, giun sán, đi ngoài phân sống.

Bài 3: Ý dĩ 80g, cúc hoa 40g, cốc tinh thảo 12g, hồ tiêu 8g, sử quân tử 40g, uy linh tiên 20g, dạ minh sa 8g. Sử quân tử ngâm nước nóng, bóc hết màng, bỏ hai đầu nhọn; cốc tinh thảo bỏ cuộng. Các vị sao vàng, tán bột mịn; đóng gói 4g. Dán kín. Trẻ em 1 – 2 tuổi, mỗi lần 1/2 gói; 2- 5 tuổi, mỗi lần uống 1 đến 1,5 gói; 5 – 10 tuổi , mỗi lần 2 gói. Ngày uống 2 – 3 lần. Trị trẻ em bụng to, hôi miệng, thối răng, toét mắt. Khi uống kiêng các chất cay nóng.

Thuốc tại chỗ: Dùng một trong các bài:

- Bài 1: Đồng thanh 4g, bằng sa 4g, xuyên tiêu 10g. Tán thành bột mịn. Súc miệng sạch, xát thuốc vào chân răng

- Bài 2 - Thuốc Cam xanh: thanh đại, ngũ bội tử, bạch phàn, mai hoa băng phiến... Mỗi lần dùng 0,05g – 0,1g. Súc miệng sạch, dùng tăm bông chấm thuốc vào chân răng và lợi; giữ thuốc tại chỗ đau càng lâu càng tốt (bôi thuốc sau bữa ăn hoặc trước khi đi ngủ). Trẻ nhỏ dưới 5 tuổi: lấy bột thuốc bằng nửa hạt gạo, thêm 1 giọt mật ong, dùng ngón tay nghiền trộn đều, bôi lên lợi (cam miệng) hoặc lên lưỡi (bị tưa lưỡi); ngày 1 lần. Thuốc có bán ở các nhà thuốc trên toàn quốc.

- Bài 3: Thanh đại 2g, hùng hoàng 2g, băng phiến 2g, bạch phàn 4g, bằng sa 4g, lô hội 4g. Các vị tán bột mịn. Súc miệng sạch, chấm thuốc vào chân răng và lợi.

Lưu ý: Vệ sinh răng miệng hàng ngày. Súc miệng nước muối và ngậm thuốc theo chỉ dẫn của thầy thuốc. Khi răng đau, chân răng sưng đau cần kiểm tra và chữa trị sớm. Ăn thức ăn mềm dễ nhai, không ăn thức ăn cay nóng.

Ly Thảo Nguyên

Đông y điều trị nghẹt mũi

Thời tiết chuyển mùa, trẻ em,người có cơ địa dị ứng với thời tiết thường dễ ngạt mũi. Chưa hẳn là ốm để dùng thuốc, nhưng sự ngạt mũi, khó t...